Xét nghiệm
Chẩn đoán tiểu dầm thường dựa vào khai thác tiền sử và khám lâm sàng. Phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu thích hợp cho cả hai giới (xem Cách đặt ống thông bàng quang ở trẻ em nữ và xem Cách đặt ống thông bàng quang ở trẻ em nam). Xét nghiệm tiếp theo khi tiền sử, khám bệnh hoặc cả hai đều gợi ý một nguyên nhân thực thể ( xem Bảng: Một số yếu tố góp phần gây tiểu dầm ban đêm và xem Bảng: Một số nguyên nhân thực thể gây tiểu dầm ban ngày). Siêu âm thận và bàng quang thường được thực hiện để xác minh giải phẫu hệ tiết niệu bình thường (2). Xét nghiệm niệu động học có thể cho thấy bệnh nhân rối loạn chức năng bài xuất nước tiểu.

Điều trị tiểu tiện không tự chủ ở trẻ em
Điều trị quan trọng nhất là giáo dục cho gia đình về nguyên nhân và lâm sàng của tiểu dầm. Việc giáo dục giúp làm giảm tâm lý tiêu cực và tăng tuân thủ điều trị.

Điều trị tiểu dầm nên điều trị theo nguyên nhân xác định được; tuy nhiên, thường không tìm được nguyên nhân. Trong những trường hợp như vậy, các phương pháp điều trị sau đây có thể hữu ích.

Tiểu dầm vào ban đêm
Chiến lược lâu dài hiệu quả nhất là sử dụng chuông báo thức. Tỷ lệ thành công có thể lên đến 70% khi trẻ bừng tỉnh chấm dứt tiểu dầm và gia đình có thể tuân thủ. Có thể mất tới 4 tháng sử dụng ban đêm mới giải quyết hoàn toàn các triệu chứng. Chuông báo thức sẽ khởi động khi bị ướt. Mặc dù, mới đầu sử dụng trẻ vẫn tiếp tục có các đợt tiểu dầm, nhưng theo thời gian, chúng học cách kết hợp cảm giác đầy bàng quang với chuông báo thức và tỉnh dậy để đi tiểu tránh tiểu dầm. Những chuông báo thức này có bán sẵn mà không kê đơn. Không nên sử dụng chuông báo thức cho trẻ tiểu dầm phức tạp hoặc trẻ có bàng quang nhỏ (bằng chứng dựa vào sổ nhật ký đi tiểu). Những trẻ này nên được điều trị như những trẻ tiểu dầm ban ngày. Tránh các biện pháp trừng phạt vì điều này làm giảm hiệu quả điều trị và ảnh hưởng đến tâm lý trẻ.

Thuốc desmopressin (DDAVP) và imipramine ( xem Bảng: Sử dụng thuốc điều trị tiểu dầm ở trẻ em *) có thể làm giảm số lần tiểu dầm ban đêm. Tuy nhiên, kết quả không duy trì ở hầu hết các bệnh nhân khi ngừng điều trị; cha mẹ và trẻ nên được giải thích trước điều này để hạn chế sự thất vọng. DDAVP thích hợp hơn imipramine vì imipramine có nguy cơ gây đột tử mặc dù hiếm xảy ra.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *